Tháng 6: Kế hoạch đỏ, nước Pháp Trận_chiến_nước_Pháp

Khó khăn của Pháp

Đến cuối tháng 5 năm 1940, những đội quân tinh nhuệ được trang bị hiện đại nhất của Pháp được điều lên phía bắc giờ đã bị loại khỏi vòng chiến do kết quả của cuộc bao vây; Pháp cũng đã mất 3 trong 4 sư đoàn thiết giáp dự bị, cùng rất nhiều vũ khí hạng nặng. Quân đội Pháp lúc này không còn sự hỗ trợ đáng kể nào của các đồng minh. Tổng cộng phe Đồng Minh mất 61 sư đoàn trong giai đoạn "Kế Hoạch Vàng".[314] Weygand chỉ còn lại 65 sư đoàn (64 sư đoàn Pháp và sư đoàn Highland số 51 của Anh) là còn khả năng chiến đấu.[314][315] Trong số đó, hầu hết là các sư đoàn hạng B được hối hả rút ra mặt trận Tây và tây nam, cộng với tàn quân sơ tán từ phía bắc gấp rút lắp ghép lại để rải dọc sông Somme nối với sông Aisne dài tới gần 400 km.[316] Cho nên, không giống như quân Đức, Weygand không có lực lượng dự bị để tiến hành phản công vá lỗ thủng trận tuyến hay để thay thế các đội quân ở tiền tuyến một khi họ đã mệt mỏi vì những trận đánh kéo dài trên mặt trận trải dài 965 kilomet từ Sedan đến biển Manche. Trận tuyến ngày càng bị đẩy lui xuống phía nam thì càng bị kéo dài và Pháp càng thiếu lực lượng phòng giữ. Trong khi đó thì Đức có tới 142 sư đoàn (trong đó có 10 sư đoàn thiết giáp), và kiểm soát toàn bộ bầu trời ngoại trừ trên eo biển Manche.[314]

Người tị nạn chiến tranh trên đường phố Pháp.

Người Pháp còn gặp phải vấn đề hàng triệu thường dân chạy nạn; những chiếc ô tô và xe ngựa kéo chở tài sản tắc nghẽn đầy đường. Vì chính phủ không lường trước được sự thất trận mau chóng đến vậy, nên đã không có kế hoạch đối phó. Có khoảng từ 6 đến 10 triệu người Pháp tị nạn, nhiều khi họ chạy vội đến nỗi phải bỏ lại cả thức ăn ăn dở trên bàn, cho dù các viên chức vẫn tuyên bố là không cần hoảng sợ và thường dân nên ở lại. Dân số Chartres giảm từ 23.000 xuống còn 800 người, còn Lille giảm từ 200.000 xuống 20.000 người, trong khi ở các thành phố miền nam như PauBordeaux lại tăng đến chóng mặt.[317]

Trong tình thế quân lực Pháp đã suy yếu thì Anh chỉ còn lại hơn 1 sư đoàn ở miền Nam Pháp cộng thêm 2 sư đoàn mới được đổ xuống trong thời gian cuộc sơ tán đang diễn ra.[318] Một vài bộ phận lãnh đạo Pháp công khai tỏ ra mất tinh thần, đặc biệt khi mà quân đội Anh đã rút lui. Trong hoàn cảnh đó, mặc dù đã cho thiết lập "phòng tuyến Weygand" ở phía nam sông Somme nhưng Weygand không còn tin rằng lực lượng của mình có thể ngăn chặn cuộc tấn công của Đức. Kết quả của việc phòng thủ phụ thuộc vào việc các binh sĩ Pháp sẽ trở lại sau cuộc sơ tán khỏi Dunkirk, và sự tham chiến trên bộ và trên không của các lực lượng mới của Anh, và nếu những điều kiện này không diễn ra thì không có cơ hội ngăn chặn được quân Đức. Weygand cùng với ban lãnh đạo Quân đội Pháp cũng hiểu "tuyến Weygand" là một canh bạc tuyệt vọng. Vì thế nên trong khi kêu gọi binh lính tử chiến thì ông ta lại ngầm tìm cách cho nước Pháp được đàm phán riêng rẽ, thậm chí tự mình phác thảo ra các hoạt động nhằm mang lại một nền "hòa bình riêng" cho nước Pháp.[319]

Phòng tuyến Weygand sụp đổ, Paris thất thủ

Case Rot của Đức trong tháng 6.Quân Đức diễu hành chiến thắng tại Khải Hoàn Môn ngày 14 tháng 6.

Trong khi trận Dunkirk chưa kết thúc thì các sư đoàn thiết giáp Đức đã được rút ra, bổ sung lực lượng.[320] Người Đức tiếp tục cuộc tấn công của mình ngày 5 tháng 6, ngay sau cuộc sơ tán tại Dunkirk. Cuộc tấn công này có một trở ngại tự nhiên rất quan trọng cần vượt qua, đó là sông Somme, nhưng trong quá trình tiến về phía tây, quân đội Đức đã thiết lập được các đầu cầu ở bờ nam sông Somme tại Abbeville, Amiens và Peronne.[321]

Cụm Tập đoàn quân B của von Bock mở màn cuộc tấn công về phía nam dọc theo sông Somme với 6 sư đoàn của Cụm Thiết giáp Kleist chia làm 2 mũi: một mũi đánh dọc theo bờ biển phía tây, một mũi hướng đến bờ biển Địa Trung Hải.[322] Trong ba tuần lễ tiếp theo, trái với cuộc tiến quân dễ dàng mà Wehrmacht mong đợi, họ đụng phải sự kháng cự mạnh của lục quân Pháp.[323] Nhờ những tuyến đường tiếp tế, liên lạc nội địa, cộng với việc ở gần hơn các xưởng sửa chữa, kho đạn dược dự trữ tiếp tế nên tình hình phía Pháp được cải thiện. Thêm nữa, có 112.000 quân Pháp sơ tán đã về nước qua các cảng Normandy và Brittany, thay thế phần nào cho những sư đoàn bị mất tại Flanders. Người Pháp cũng đã có thể bù đắp một lượng đáng kể những tổn thất về thiết giáp và tăng cường cho các Sư đoàn Thiết giáp Dự bị số 1 và số 2. Sư đoàn Thiết giáp Dự bị số 4 của De Gaulle cũng được bổ sung những tổn thất. Tinh thần binh sĩ lại lên rất cao vào cuối tháng 5 năm 1940.[324]

Việc tinh thần chiến đấu lên cao trở lại chủ yếu có 3 nguyên nhân: hầu hết binh sĩ Pháp tham gia chiến trường lúc này mới chỉ biết về thắng lợi của Đức qua những tin đồn; các sĩ quan Pháp còn sống sót giờ đã nâng cao kinh nghiệm chiến thuật đối phó với những đơn vị cơ động Đức; niềm tin về vũ khí được nhân lên sau khi họ chứng kiến lực lượng pháo binh của mình (sau cuộc chiến, Wehrmacht đã phân tích và công nhận chất lượng kỹ thuật pháo binh Pháp là rất tốt), cũng như việc xe tăng Pháp đã thể hiện sức chiến đấu tốt hơn quân thiết giáp Đức, với lớp giáp và vũ trang nặng hơn.[325]

Tù binh Pháp bị áp giải đến trại giam

Trong các ngày từ 23 đến 28 tháng 5, Pháp đã tái lập được Tập đoàn quân số 7 và số 10. Weygand quyết định áp dụng chiến thuật "con nhím", thực hiện phòng ngự chiều sâu và triển khai các chiến lược trì hoãn được bố trí để gây tối đa cho các đơn vị của đối phương. Ông ta huy động những đơn vị vào các thị trấn và ngôi làng nhỏ, cũng như các đô thị và thành phố lớn, rồi thiết lập củng cố 360° theo chu vi của chúng. Đóng ở phía sau sẽ là các sư đoàn bộ binh, thiết giáp và bán cơ giới mới thành lập, sẵn sàng phản công và giải vây cho những đơn vị lân cận, vốn đã được lệnh cố thủ bằng mọi giá.[326]

Cụm Tập đoàn quân B của Đức tiến đánh Paris từ cả hai phía. Trong số 47 sư đoàn của họ, phần lớn là các đơn vị cơ động.[327] Thực tế, sau 48 tiếng đồng hồ tấn công, người Đức không đạt được đột phá nào đáng kể.[328] Tập đoàn quân số 4 Đức thành công trong việc chiếm các đầu cầu bắc qua sông Somme, nhưng Quân đoàn Panzer 16 của Erich Hoepner phải chiến đấu khá khó khăn để tiến qua được sông Aisne.[329] Tại đây Hoepner đã tung hơn 1.000 phương tiện chiến đấu bọc thép, 2 sư đoàn thiết giáp và 1 sư đoàn cơ giới vào trận tuyến Pháp, nhưng Weygand đã tổ chức một hệ thống phòng ngự chiều sâu và bẻ gãy cuộc đột phá,[330] Hoepner mất 80 trong tổng số 500 xe cộ của đợt công kích đầu tiên. Cuộc tấn công tại đây đã không thể kết thúc nhanh chóng. Trong nhiều đợt xung phong ở Amiens, quân Đức cũng liên tiếp bị đẩy lui trước lực lượng pháo binh tập trung mạnh mẽ của Pháp và phải thừa nhận sự tiến bộ trong chiến thuật của đối phương.

Một lần nữa, Lục quân Đức lại trông cậy vào Luftwaffe để tung đoàn quyết định nhằm bịt miệng các họng pháo Pháp, giúp cho bộ binh Đức tiến lên trước.[331] Quân Đức đạt được tiến triển vào cuối ngày thứ ba của chiến dịch, và cuối cùng đột phá thành công. Không quân Pháp cố gắng ném bom đối phương nhưng thất bại. Các nguồn ghi chép của Đức thừa nhận trận chiến này "khó khăn và tốn nhiều nhân mạng, quân địch kháng cự ác liệt, đặc biệt là các trận tuyến trong rừng vẫn tiếp tục chiến đấu khi quân ta đã vượt qua chốt kháng cự".[332] Tuy nhiên, ở phía nam Abbeville, Tập đoàn quân số 10 do tướng Robert Altmayer chỉ huy đã bị vỡ trận tuyến và buộc phải rút lui về Rouen và phía nam dọc theo sông Seine. Những tiến triển nhanh chóng của Đức cho thấy sự suy yếu của đối phương. Các mũi tấn công đã đột phá phòng tuyến Pháp theo một kịch bản gần giống nhau: Quân Pháp cầm cự được trong ngày đầu tiên, rút lui một phần vào ngày thứ hai và tan vỡ trong ngày thứ ba.[333] Trong các cuộc cận chiến, Luftwaffe đã phải chật vật mới có thể tham gia. Tuy nhiên, về ý nghĩa tác chiến, họ đã giúp phân tán lực lượng thiết giáp Pháp. Các mũi nhọn của quân Đức bị trải rộng ra và trở nên dễ bị công kích, nhưng nhờ không quân Đức tập trung lại đã ngăn không cho quân Pháp tập hợp, và mối e ngại về các đòn không kích đã ngăn không cho Weygand tận dụng sự tập trung và cơ động của quân đội mình.[334]

Ngày 9 tháng 6, Cụm Tập đoàn quân A của von Rundstedt gia nhập chiến dịch và nổ súng đột phá phòng tuyến Pháp dọc sông Aisne. Chỉ sau 1 ngày, mũi thiết giáp gồm 4 sư đoàn của Guderian[ct 8] đã lập được đầu cầu bên sông Aisne.[336]

Quân Đức tại Paris

Đến ngày 10 tháng 6, chính phủ Pháp bỏ chạy về Bordeaux, tuyên bố Paris là một thành phố mở.[337] Đức huy động Tập đoàn quân 18 tấn công Paris. Quân Pháp kháng cự mạnh mẽ trên đường vào thủ đô, nhưng phòng tuyến vẫn bị phá vỡ ở nhiều nơi. Weygand giờ đã xác định rằng chẳng bao lâu nữa quân đội Pháp sẽ tan rã.[338]

Ngày 13 tháng 6 năm 1940, Churchill tham dự một cuộc họp của Hội đồng Chiến tranh Tối cao Anh-Pháp tại Tours. Ông ta đề nghị hợp nhất 2 quốc gia nhưng bị từ chối.[339] Người Pháp yêu cầu Churchill cung cấp tất cả phi đội máy bay chiến đấu sẵn có để cứu vãn cuộc chiến. Churchill từ chối vì lực lượng tiêm kích còn lại của Anh theo Hugh Dowding, tổng tư lệnh Bộ chỉ huy tiêm kích RAF, đã giảm xuống dưới 25 phi đội, chỉ đủ để bảo vệ nước Anh. Không quân Anh không thể hỗ trợ có hiệu quả cho Pháp nếu họ muốn đảm bảo sự an toàn của đất nước họ. Lực lượng của RAF từ 1.078 máy bay giờ chỉ còn 475 chiếc. Hồ sơ của RAF cho thấy trong ngày 5 tháng 6 năm 1940 chỉ có 179 máy bay Hawker Hurricane và 205 máy bay Supermarine Spitfire có thể sử dụng được.[309] Trong cuộc gặp, Churchill nhận được lời bảo đảm từ đô đốc François Darlan rằng hải quân Pháp sẽ không rơi vào tay người Đức.

Ngày 14 tháng 6, Paris thất thủ,[9] Quân đội Đức Quốc xã đã lấy được Paris, chiến lợi phẩm đã vuột mất trong trận sông Marne lần thứ nhất. Đây là mốc đánh dấu lần thứ hai trong vòng một thế kỷ Paris bị các lực lượng quân sự Đức chiếm đóng (lần đầu tiên là trong chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871). Những người dân Paris ở lại đã chứng kiến trong hầu hết các trường hợp rằng quân Đức đã cư xử một cách cực kỳ tử tế.[340]

Ở phía tây, Rommel và Sư đoàn Panzer số 7 của mình băng qua sông Seine tại Normandy và chiến được cảng Cherbourg ngày 18 tháng 6. Trên đường đến Cherbourg, Rommel đã bức hàng Sư đoàn Highland số 51 của Anh vào ngày 12 tháng 6.

Phòng tuyến Maginot sụp đổ

Tuyến phòng thủ Maginot

Trong khi ấy, ở phía đông, Cụm Tập đoàn quân C đã cùng Cụm Tập đoàn quân A bao vây và bắt sống các lực lượng Pháp tại phòng tuyến Maginot. Mục tiêu của hoạt động này là bao vây khu vực Metz cùng các công sự của nó, nhằm ngăn chặn một cuộc phản công của Pháp từ miền Alsace vào trận tuyến của Đức tại sông Somme. Quân đoàn 19 của Guderian sẽ tiến đến biên giới Pháp - Thụy Sĩ và bao vây các lực lượng Pháp tại vùng núi Vosges, còn Quân đoàn 16 tấn công phía sau lưng đang sơ hở của phòng tuyến Maginot từ phía tây để chiếm các thành phố Verdun, Toul và Metz. Lúc này, người Pháp đã đưa Cụm Tập đoàn quân số 2 ra khỏi Alsace và Lorraine để điều đến "phòng tuyến Weygand" trên sông Somme, chỉ để lại các lực lượng nhỏ bảo vệ phòng tuyến Maginot này. Sau khi Cụm Tập đoàn quân B bắt đầu tấn công Paris và tiến vào Normandy, Cụm Tập đoàn quân A cũng bắt đầu tiến quân vào sau lưng phòng tuyến Maginot. Ngày 12 tháng 6, Cụm Thiết giáp Guderian để lại các điểm đề kháng cho bộ binh và cấp tốc vượt sông Marne thọc sâu đánh dọc lưng chiến tuyến Maginot, bao vây Cụm Tập đoàn quân số 2 Pháp.[341] Ngày 15 tháng 6, Cụm Tập đoàn quân C của tướng Leeb mở chiến dịch Tiger (Con Hổ), một cuộc tấn công trực diện vượt qua sông Rhine và tiến vào Pháp.[342]

Những nỗ lực của Đức nhằm chọc thủng hay vượt qua phòng tuyến Maginot trước chiến dịch Tiger đã thất bại. Một cuộc tấn công kéo dài 8 tiếng đồng hồ tại cực bắc của phòng tuyến đã khiến Đức mất 46 người chết và 251 bị thương, trong khi chỉ có 2 lính Pháp thiệt mạng (1 tại pháo đài Ferme-Chappy và 1 tại pháo đài Fermont). Ngày 15 tháng 6, lực lượng cuối cùng được trang bị tốt của Pháp, trong đó có Tập đoàn quân số 4 đã sửa soạn rời đi trước khi người Đức tấn công. Lực lượng Pháp trấn giữ phòng tuyến nay chỉ còn lại bộ khung.[343] Quân Đức đã hoàn toàn áp đảo Pháp về số lượng. Họ có thể yêu cầu Quân đoàn 1 huy động 7 sư đoàn và 1.000 khẩu pháo, cho dù hầu hết chỉ là loại pháo cũ từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất và không thể chọc thủng được lớp tường dày của các pháo đài. Chỉ có đại bác 88 ly là có thể làm được việc đó, và 16 khẩu loại này đã được điều động cho chiến dịch. Để hỗ trợ thêm, 8 khẩu đội pháo xe lửa 150 ly cũng được triển khai. Luftwaffe đã tung Quân đoàn Không quân số 5 làm lực lượng yểm trợ trên không.[343]

Cuộc chiến vẫn diễn ra khó khăn và tiến triển chậm do sự kháng cự mãnh liệt của quân Pháp. Tuy nhiên, lần lượt từng pháo đài cũng bị xóa sổ.[344] Pháo đài Schoenenbourg đã bị bộ binh tấn công Đức nã 15.802 viên đạn 75 ly, đây là nơi bị bắn phá dữ dội nhất trong tất cả các vị trí của quân Pháp. Tuy vậy, lớp tường dày đã giúp nó không bị tổn thương nghiêm trọng.[345] Cùng ngày chiến dịch Tiger được triển khai, chiến dịch Kleiner Bär cũng bắt đầu. 5 sư đoàn xung kích thuộc Quân đoàn 7 đã vượt sông Rhine tiến vào khu vực Colmar nhằm tiến đến dãy núi Vosges. Họ nắm trong tay 400 khẩu pháo cùng với sự yểm trợ của pháo hạng nặng và súng cối. Họ đã đánh dồn các sư đoàn số 104 và 105 Pháp vào dãy núi Vosges trong ngày 17 tháng 6. Trước đó, ngày 16 tháng 6, các sư đoàn thiết giáp của Guderian đã tới Besançon và đến ngày 17 thì tiến đến biên giới Thụy Sĩ, hoàn toàn cắt rời Cụm Tập đoàn quân số 2.[346] Hệ thống phòng thủ tại Maginot bị cắt rời khỏi phần còn lại của nước Pháp. Hầu hết các đơn vị Pháp tại đây đã đầu hàng ngày 25 tháng 6 năm 1940, và Đức tuyên bố bắt được 500.000 tù binh. Nhưng một số pháo đài chính vẫn không chịu buông súng bất chấp những lời kêu gọi đầu hàng cho đến khi đại diện của Chính phủ Pháp đến tận nơi vào tháng 7 năm 1940.[347] Pháo đài cuối cùng chỉ chịu đầu hàng vào ngày 10 tháng 7 năm 1940 theo lời kêu gọi của tướng Alphonse Joseph Georges, sau những phản đối gay gắt.[348] Trong số 58 công sự chính yếu thuộc phòng tuyến Maginot, chỉ có 10 chiếc bị quân đội Đức chiếm trong cuộc chiến.[349]

Chiến thắng của Không quân Đức

Trong thời gian này, chiến sự trên không cũng nguy cấp không kém trên bộ. Luftwaffe đã chiếm được ưu thế tuyệt đối trong khi sức mạnh không quân Pháp ở bên bờ vực sụp đổ.[350] Trong tình thế tuyệt vọng, Không quân Pháp lúc này mới bắt đầu tiến hành những đợt ném bom lớn nhất, và từ ngày 5 đến 9 tháng 6, hơn 1.815 phi vụ, trong đó có 518 đợt ném bom đã được thực hiện trong chiến dịch Paula. Thế nhưng, tổn thất trong những phi vụ này giờ không thể thay thế được, và số lượng các phi vụ nhanh chóng giảm đi. Không quân Hoàng gia Anh (RAF) cố gắng đỡ đòn cho Pháp với 660 đợt tấn công vào các mục tiêu ở vùng Dunkirk nhưng bị tổn thất nặng nề; tính riêng trong ngày 21 tháng 6 đã mất 37 máy bay Bristol Blenheim.[351] Sau ngày 9 tháng 6, sự kháng cự trên không của Pháp hầu như chấm dứt và số máy bay còn khả năng chiến đấu đều đã rút chạy sang Bắc Phi thuộc Pháp. Không quân Đức giờ đã được "xả láng" hoành hành. Những cuộc tấn công giờ tập trung vào hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho Lục quân Đức. Luftwaffe tập trung vào các tuyến phòng thủ để công kích dữ dội, khiến cho chúng phải nhanh chóng sụp đổ dưới đòn tấn công thiết giáp sau đó.

Trong toàn chiến dịch, ước tính Pháp mất 1.274 máy bay, Anh mất 959 chiếc (trong đó có 477 tiêm kích).[12] Đổi lại, tính chung cả chiến dịch thì Không quân Đức cũng bị mất 28% lực lượng, tức là khoảng 1.428 máy bay (1.129 bị bắn rơi, 299 do tai nạn). Ngoài ra 488 máy bay bị hư hỏng (225 là do đối phương, 263 do tai nạn), nâng tổng số thiệt hại của Đức lên đến 36%.[8][12] Tuy nhiên, toàn bộ chiến dịch là một thành công ngoạn mục của Không quân Đức khi đã huỷ diệt Armée de l'Air cùng 2 lực lượng không nhỏ của Bỉ và Hà Lan, ngoài ra còn gây thiệt hại nặng cho Không quân Hoàng gia Anh. Với thành tích này, Thống chế Hermann Göring - Tư lệnh Không quân Đức - đã được trao thưởng Huân chương Chữ thập sắt Kỵ sĩ.

Ý tham chiến

Bài chi tiết: Ý xâm chiếm Pháp

Theo lời mời của Hitler, Mussolini đã đồng ý sẽ tấn công Pháp ngày 5 tháng 6, nhưng cuối cùng lại hoãn đến ngày 10 tháng 6 mới tuyên chiến với Anh và Pháp.[352] Cuộc tấn công của Ý vào thời điểm này được mô tả như một hành động "đâm sau lưng" nước Pháp.[353] Tuy nhiên, nước Ý lúc này chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh. Sức mạnh quân sự Ý được khoa trương qua lời của Mussolini đã bộc lộ sự thật khi sau một tuần lễ tham chiến, tại vùng núi Alps, khoảng 32 sư đoàn Ý hầu như không tiến được bước nào trước 6 sư đoàn Pháp, mặc dù các sư đoàn này đang bị quân Đức đe dọa từ sau lưng.[354][355] Tướng Pháp René Olry tư lệnh Tập đoàn quân Alps đã chống lại tất cả các cuộc tấn công của Ý, cũng như sau đó đẩy lui các cuộc tấn công của Đức tại khu vực thung lũng sông Rhone. Nhà độc tài Ý Benito Mussolini nhận thức được điều đó và chỉ có ý định kiếm lợi từ chiến thắng của người Đức.[356] Mussolini đã giới hạn xung đột và chỉ tham chiến một cách hạn chế trong 12 ngày cuối cùng của cuộc chiến, cho đến lúc đó quân Ý vẫn không vượt qua các công sự trên dãy Alps của Pháp. Như ông ta đã nói với tham mưu trưởng của mình, thống chế Badoglio: "Tôi chỉ cần vài nghìn cái chết để có thể ngồi vào bàn hội nghị hoà bình như một người đã chiến đấu."[357]

Trong khi đó, tâm lý chiến bại của ban lãnh đạo Pháp đã ngăn cản các hành động đáp trả. Thủ tướng Pháp Paul Reynaud đã kêu gọi Hạm đội Pháp tấn công cảng Genova ngay sau khi Ý tham chiến, nhưng chỉ có một chi hạm đội tiến hành trong ngày 14 tháng 6, và Đô đốc Hải quân François Darlan đã ngăn cản mọi hành động khác. Cố gắng sau đó của Không quân Hoàng gia Anh nhằm tấn công các mục tiêu ở MilanTurin từ sân bay Marseille cũng bị Darlan ngăn chặn bằng cách cho đặt xe tải chặn đường băng cất cánh.[358]

Mặc dù có tham vọng nhân cơ hội lấn chiếm lãnh thổ Pháp càng nhiều càng tốt và đặc biệt là chiếm lấy Hạm đội Pháp, xa hơn nữa là nhằm mở rộng thuộc địa của Ý ở Bắc Phi bằng cách chiếm đoạt các thuộc địa của Anh và Pháp tại đó, nhưng kết quả nghèo nàn của Quân đội Ý khiến tiếng nói của Mussolini không có nhiều trọng lượng. Đề nghị được cùng Hitler ký chung Hiệp định đình chiến với Pháp bị từ chối vì Hitler không muốn san sẻ vinh quang chiến thắng.[359]

Cuộc sơ tán phía nam của B.E.F.

Ngoài lực lượng ở phía bắc Pháp, thì B.E.F còn Sư đoàn Sơn chiến số 51 và một phần Sư đoàn Thiết giáp số 1 ở Nam sông Somme và các đơn vị hậu tuyến ở các cảng căn cứ ở miền Nam nước Pháp. Trong khi cuộc sơ tán phía bắc đang diễn ra, thì Churchill cho rằng Anh vẫn có nghĩa vụ hỗ trợ Pháp, do đó đổ tiếp Sư đoàn Sơn chiến số 52 và Sư đoàn Canada số 1 xuống cảng Cherbourg, tất cả đặt dưới quyền của tướng Alan Brooke. Vào tối ngày 14 tháng 6, sau khi Paris bị chiếm đóng, tướng Alan gọi điện cho Churchill yêu cầu sơ tán trước khi quá muộn. Churchill đồng ý và cuộc sơ tán thứ hai của BEF diễn ra với cái tên chiến dịch Ariel từ ngày 15 đến 25 tháng 6.

Không quân Đức làm chủ tuyệt đối bầu trời nước Pháp đã kiên quyết ngăn chặn các cuộc sơ tán khác của Đồng Minh sau lần thất bại ở Dunkirk. Quân đoàn Không quân số 1 được phân công phụ trách vùng NormandyBrittany. Trong 2 ngày 9 và 10 tháng 6, cảng Cherbourg đã phải hứng chịu 15 tấn bom Đức, trong khi tại Le Havre 10 đợt không kích đã đánh chìm 2.949 tấn dung tích đăng ký các tàu sơ tán của Đồng Minh. Ngày 17 tháng 6 năm 1940, các máy bay Junkers Ju 88 (chủ yếu thuộc không đoàn ném bom Kampfgeschwader 30) đã đánh chìm "một chiếc tàu 10.000 tấn" mà chính là chiếc Lancastria có tổng dung tích 16.243 tấn ngoài khơi Saint-Nazaire, giết chết khoảng 5.800 nhân viên Đồng Minh (chiếm một nửa số người chết của Anh trong toàn Trận chiến nước Pháp).[360]

Thế nhưng, rốt cuộc Luftwaffe vẫn thất bại trong việc chặn đứng cuộc sơ tán với tổng cộng 144.171 quân nhân Anh, 18.246 Pháp, 24.352 Ba Lan, 4.938 Tiệp Khắc và 163 Bỉ đã được sơ tán thành công.[361] Riêng một số đơn vị của Sư đoàn Sơn chiến 51 tập kết tại Saint-Valery-en-Caux buộc phải đầu hàng vào ngày 11 tháng 6 do quân Đức đã khống chế các cao điểm quanh thành phố.[362]

Đầu hàng và đình chiến

Hitler cùng Göring trước lễ ký hiệp định tại Compiègne.Wilhelm Keitel trước toa xe trong thời gian đàm phán tại Compiègne

Thất bại quân sự của Pháp dẫn tới khủng hoảng chính trị. Một số chính khách muốn thừa nhận thất bại và cầu hòa, trong khi một số khác muốn dựa vào thuộc địa ở Bắc Phi để tiếp tục chiến tranh theo cam kết với Đồng Minh. Trong lúc này, với một nỗ lực cuối cùng để giữ Pháp tiếp tục chiến tranh, ngày 16 tháng 6, chính phủ Anh đã đề nghị thành lập một liên minh với Pháp, theo đó, về nguyên tắc, sẽ hợp nhất hai quốc gia vào làm một, với một chính phủ và một loại tiền tệ duy nhất.[363]

Một số nhà sử học, như Jacques Belle, cho rằng những thiệt hại lúc này của Đức có thể làm chậm bước tiến của họ đủ lâu để các lực lượng Pháp có thể rút sang Bắc Phi với một hạm đội nguyên vẹn. Tuy nhiên khuynh hướng đầu hàng được tướng Weygand, Thống chế Pétain, Pierre Laval và Đô đốc Darlan ủng hộ đã chiến thắng, dẫn tới những phản ứng thù địch với đề nghị của Anh trong chính phủ. Nản lòng trước những phản ứng thù địch của nội các trước đề xuất của Anh, và tin rằng các bộ trưởng không còn ủng hộ mình nữa, Thủ tướng Paul Reynaud, người chủ trương tiếp tục chiến tranh đã từ chức vào ngày 16 tháng 6 năm 1940. Kế nhiệm ông là Thống chế Philippe Pétain, người sau đó đã bác bỏ đề nghị của Anh và tuyên bố trên radio ngày 17 tháng 6 với dân chúng Pháp về dự định đề nghị đình chiến với Đức.

Ngày 17 tháng 6, Pétain gửi đề nghị cầu hòa qua Đại sứ Tây Ban Nha. Nhận được đề nghị, Hitler đã chọn rừng Compiègne làm địa điểm đàm phán.[364] Compiègne là nơi ký kết hiệp định đình chiến năm 1918, kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất với thất bại nhục nhã của nước Đức, Hitler thấy lựa chọn này là sự rửa nhục tốt nhất của Đức đối với Pháp.[365]

Hiệp định đình chiến được ký ngày 22 tháng 6 trên cùng toa xe lửa mà tại đó hiệp đình chiến năm 1918 được ký kết (đã được mang ra từ bảo tàng và đặt lại đúng nơi nó đã nằm năm 1918[366]), Hitler ngồi đúng tại chiếc ghế mà thống chế Ferdinand Foch từng ngồi trước các đại diện của nước Đức chiến bại năm xưa.[367][368] Sau khi nghe đọc nghi thức, Hitler đã rời toa xe trong một cử chỉ tỏ ý khinh miệt có tính toán đối với các đại biểu của Pháp, để cuộc đàm phán lại cho tham mưu trưởng của OKW là tướng Wilhelm Keitel. Cụm Tập đoàn quân số 2 của Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Pretelat đã đầu hàng cùng ngày hôm đó.

Ngày 24 tháng 6 năm 1940, Pháp cũng phải ký một hiệp định đình chiến với Ý. Thời điểm hiệu lực của cả hai hiệp định đều bắt đầu 6 tiếng đồng hồ sau khi hiệp định thứ hai được ký kết, tức là lúc 1h35 ngày 25 tháng 6 năm 1940.[369][370] Trước thời hạn đó, quân Đức vẫn tranh thủ mở rộng vùng chiếm đóng trên lãnh thổ Pháp cùng với Quần đảo Eo biển của Anh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_chiến_nước_Pháp http://www.kbismarck.com/frencharmistice.html http://www.theartofbattle.com/battle-of-france-194... http://ww2history.com/experts/Robert_Citino/The_Fr... http://www.calvin.edu/academic/cas/gpa/facts01.htm http://quod.lib.umich.edu/cgi/t/text/pageviewer-id... http://mjp.univ-perp.fr/france/1940armistice.htm http://catdir.loc.gov/catdir/toc/ecip0515/20050181... http://commandantdelaubier.info/circonstances/arti... http://www.history.army.mil/books/OpArt/index.htm http://www.dtic.mil/doctrine/jel/jfq_pubs/1630.pdf